Hoài nghi về cuộc sống của con người sau cái chết vẫn là câu hỏi thường trực bỏ ngỏ đối với toàn thể nhân loại…
Từ hàng nghìn năm nay, con người vẫn luôn tìm tòi và khám phá để trả lời câu hỏi kinh điển nhất của nhân loại: “Chuyện gì xảy ra sau khi ta chết đi?” hay “Cuộc sống sau cái chết sẽ như thế nào?”.
Có vô số giả định được đưa ra: chúng ta sẽ lên thiên đường, xuống địa ngục hay tiếp tục sống trong một thế giới khác… Tuy nhiên, đâu mới là câu trả lời chính xác cho ẩn số này?
Nhiều người tự hỏi, mỗi con người sinh ra chỉ có duy nhất một cuộc sống hay đó là một vòng luân hồi: sinh ra – chết đi – tái sinh vào cuộc sống mới. Giả thuyết mỗi linh hồn có nhiều kiếp sống được tiến sĩ Ian Stevenson thuộc ĐH Virginia (Mỹ) nghiên cứu một cách khách quan từ năm 1958. Ông đã tìm hiểu rất nhiều trường hợp và chỉ ra rằng, con người có lẽ không chỉ có duy nhất một cuộc sống.
Bài viết dưới đây không nhằm khẳng định hay cố thuyết phục bạn rằng, thật sự có thêm một hay nhiều kiếp sống sau khi chết mà chỉ dừng lại ở việc nêu lên những nhân chứng được xác thực về việc đầu thai trên khắp thế giới. Qua đó, nó giúp bạn có cái nhìn rộng hơn về bí ẩn sự sống của con người sau cái chết.
Từ những đoạn ký ức của nhân chứng…
Trường hợp đầu tiên là câu chuyện của Gamini Jayasuriya được sinh ra ở Sri Lanka vào năm 1962. Khi còn là một đứa trẻ, Gamini đã kể rằng cậu nhớ kiếp trước của mình.
Ở kiếp trước, cậu có một người mẹ khác to lớn hơn người mẹ hiện giờ. Cậu có chú voi đồ chơi hay mang theo khi đi tắm, cậu cũng đã từng bị ngã xuống chiếc giếng gần nhà. Cậu thường bị người em tên Nimal cắn và cậu còn đang để chiếc cặp sách trên chiếc ghế trong phòng.
Nếu sự việc chỉ dừng lại ở đây thì việc tìm ra kiếp trước của Gamini sẽ không thể thực hiện được. Thật may là trong một lần tình cờ đi qua khu vực Nittambuwa (Sri Lanka), Gamini nói rằng em nhận ra mình đã từng sống ở đó. Mọi người cùng nhau quay lại Nittambuwa để tìm hiểu. Họ xuống xe ở chỗ Gamini nói và đi về phía cuối con đường. Tuy nhiên, họ đã không bước vào căn nhà mà Gamini chỉ – nơi mẹ em sống ở đó bởi đó là một gia đình theo đạo Thiên Chúa.
Nghĩ lại, mọi người trong nhà đều cảm thấy có sự trùng hợp khi mỗi lần cầu nguyện, Gamini thường quỳ thẳng lưng (giống như khi cầu nguyện theo đạo Thiên Chúa) chứ không quỳ ngồi như người khác. Có một lần, em còn đòi mẹ treo cây Thánh giá em tìm được lên tường.
Tình cờ, họ gặp được người đi đường và nghe kể về gia đình nơi Gamini nói tới. Gia đình này theo đạo Thiên Chúa, có một cậu con trai tên Palitha nhưng đã qua đời 2 năm trước khi Gamini sinh ra (tức là năm 1960). Palitha có một người em tên là Nimal – người hay cắn cậu. Vài ngày trước khi qua đời, cậu được nghỉ lễ và đã để chiếc cặp lên ghế thay vì cất trong tủ như thường lệ…
Trường hợp thứ hai được đề cập đến là một cậu bé 6 tuổi người Thổ Nhĩ Kỳ – Kemal Atasoy. Vào năm 1997, tiến sĩ Jurgen Keil – nhà tâm lý học người Úc đã lắng nghe và ghi nhận những miêu tả một cách tự tin về cuộc sống trước kia của cậu bé Kemal.
Kemal kể rằng ở kiếp trước, cậu đã từng sống ở Istanbul (cách đó 800km), trong dòng họ Karakas và cậu là một tín đồ Cơ đốc giáo giàu có người Armenia. Nhà của Kemal sống cạnh bờ sông và gia đình cậu chỉ sống tại đây trong một thời gian nhất định trong năm. Cậu thường có thói quen mang theo túi da lớn bên người khi ra ngoài. Cậu có vợ người Hy Lạp và có con.
Tiến sĩ Keil đã bỏ công sức đi kiểm chứng lời nói của Kemal. Tuy rất vất vả nhưng cuối cùng, tiến sĩ cũng tìm gặp được một cụ già chắc chắn có gia đình người Armenia sống ở ngôi nhà đó nhưng thông tin về mọi người trong gia đình để tại nhà thờ đã bị thiêu trụi trong một vụ hỏa hoạn.
Tiến sĩ Keil tiếp tục tìm đến một nhà sử học uy tín trong vùng và được nghe kể câu chuyện gần như trùng khớp với những lời Kemal đã nói. Nhà sử học kể rằng, có một gia đình đạo Cơ-đốc giàu có sống trong căn nhà bên hồ. Ông ta là người Armenia duy nhất trong vùng và có họ Karakas. Vợ ông là người Hy Lạp và họ có ba người con.
Người đàn ông thường mang theo một túi da lớn và vì dòng họ Karakas chuyên kinh doanh đồ da ở một khu vực khác của Istanbul nên ông ta chỉ sống ở nhà vào những tháng mùa hè. Người đàn ông đó chết khoảng năm 1940-1941.
Câu hỏi được đặt ra là làm thế nào một cậu bé lại có thể biết những thông tin về một người đàn ông sống cách đó 800km và không có bất cứ một liên hệ nhỏ nào tới gia đình cậu?
Và đặc biệt hơn, cậu không thể nghe kể về một người đã chết cách đó 50 năm mà tiến sĩ Keil phải rất vất vả mới tìm được một chút thông tin ít ỏi? Liệu Kemal có cách giải thích nào không hay đơn giản, Kemal khẳng định kiếp trước của mình – cậu chính là người đàn ông đó.
… đến những vết bớt trên cơ thể…
Nhiều người cho rằng, những dấu vết trên cơ thể như vết bớt có liên quan tới cuộc sống của một người trước đó, là dấu vết của sự luân hồi. Nhiều câu chuyện, trường hợp được kể dưới đây mang màu sắc về sự luân hồi, ở đó con người sau khi chết sẽ chuyển thành một cơ thể khác ở kiếp sống mới. Trong sự thay đổi đó có những dấu vết của cơ thể cũ còn lưu lại, tạo thành vết bớt.
Chanai Choomalaiwong được sinh ra ở miền Trung Thái Lan vào năm 1967 với hai vết bớt, một ở sau đầu và một ở phía trên mắt trái. Khi cậu bé được sinh ra, gia đình Chanai không cho rằng các vết bớt này có ý nghĩa đặc biệt gì, nhưng khi được ba tuổi, cậu bé bắt đầu kể chuyện về cuộc sống ở kiếp trước.
Cậu bé nói mình từng là một thầy giáo tên Bua Kai và bị bắn chết trên đường đến trường. Chanai nhớ được tên bố mẹ, vợ và hai con trong kiếp trước, cậu liên tục đòi người bà hiện tại của mình đưa tới nhà bố mẹ trước kia của mình ở Khao Pra.
Cuối cùng, chiều lòng Chanai, hai bà cháu đi đến một thị trấn gần Khao Pra. Chanai dẫn bà tới ngôi nhà mà em nói là nơi bố mẹ mình sống. Ngôi nhà thuộc về một cặp vợ chồng già sống cùng người con trai làm thầy giáo tên Bua Kai Lawnak nhưng đã mất 5 năm trước khi Chanai được sinh ra.
Chanai đã nói bố mẹ của Bua Kai chính là bố mẹ mình. Bị ấn tượng bởi vết bớt và lời kể của Chanai, cặp vợ chồng già đã mời cậu ở lại một thời gian. Trong khoảng thời gian này, Chanai đã chỉ ra đúng những đồ vật Bua Kai hay dùng và yêu cầu con gái của Bua Kai gọi mình là bố.
Tiến sĩ Ian Stevenson không tìm thấy một hồ sơ pháp y nào về các vết thương của Bua Kai nhưng theo lời kể của những người trong gia đình thì Bua Kai bị một viên đạn xuyên qua đầu từ phía sau. Do đó, vết thương ở sau đầu (khi đạn tiếp xúc) nhỏ hơn nhiều so với vết thương trên trán (khi đạn xuyên ra), điều này trùng khớp với hai vết bớt trên đầu Chanai (một vết nhỏ sau đầu và một vết to phía trên mắt trái).
Trường hợp này đã chỉ ra, không thể có sự “trùng hợp ngẫu nhiên” nào khi một cậu bé có những vết bớt trùng khớp hoàn toàn với vết thương của người quá cố. Bên cạnh đó, cậu còn nhớ rất rõ về các chi tiết của cuộc đời thầy giáo Bua Kai – người mà cậu chưa từng quen biết .
Trường hợp khác được nhắc tới tới tiếp theo là Necip Unlutaskiran từ Thổ Nhĩ Kỳ. Khi vừa chào đời, người ta thấy cậu bé có một số vết bớt trên đầu, mặt và trên người. Lúc đầu, bố mẹ cậu định đặt tên cho cậu là Malik nhưng trong giấc mơ vào thời điểm ba ngày trước khi cậu được sinh ra, mẹ cậu mơ thấy con mình nói nó tên là Necip.
Sau đó, bố mẹ cậu đổi tên cậu thành Necati vì 2 tên này tương tự nhau và trong gia đình đã có đứa bé tên Necip. Tuy nhiên, khi biết nói, cậu liên tục đòi được gọi là Necip và không chịu đáp lại khi bị gọi bằng tên khác.
Necip bắt đầu kể về cuộc sống kiếp trước từ khi lên 6. Cậu nói trước đây mình sống ở Mersin, đã có vợ, con, và đã bị đâm liên tiếp cho tới chết. Chỉ tới khi cậu được tới thăm ông bà ngoại – lúc 12 tuổi thì những lời kể của cậu bé mới được kiểm chứng.
Lúc trước, bà ngoại Necip sống ở Mersin và có người hàng xóm tên Necip Budak. Anh ta bị đâm đến chết một thời gian ngắn trước khi bé Necip ra đời. Khi ông ngoại đưa Necip tới Mersin, em đã nhận ra người nhà của Necip Budak và nói rằng, mình từng dùng dao cứa vào chân vợ mình trong một trận cãi vã.
Dĩ nhiên, trước đó Necip chưa hề nhìn thấy chân của người quả phụ. Sau đó, một người trong nhóm nghiên cứu đã kiểm chứng, xác nhận, chị có một vết sẹo trên đùi và thừa nhận vết sẹo này do chính chồng mình gây ra.
Tiến sĩ Stevenson đã lấy được một bản sao biên bản khám nghiệm tử thi của Necip Budak và ông phát hiện rằng, những vết bớt trên người Necip trùng khớp với vết thương được miêu tả trong biên bản. Điều này quả là một sự trùng hợp đến khó tin.
Ở Việt Nam, một số trường hợp về chuyện nhớ lại kiếp trước của mình do chết đuối, nhận ra con cháu đã chết được “đầu thai” qua vết bớt cũng được đề cập, nhưng chưa có kiểm chứng rõ ràng.
Những lời giải thích đầu tiên…
Nói dối và tưởng tượng
Giả thuyết này không đứng vững được lâu bởi lẽ, xét về khía cạnh động cơ, những nhân vật này hoàn toàn không có động cơ nào để “sáng tạo” ra một câu chuyện như vậy.
Bên cạnh đó, tiến sĩ Keil và cộng sự không có sự giao lưu, trao đổi thân mật trước đó, có chăng chỉ là những bức thư thông báo họ sẽ tới nhà và đặt ra rất nhiều câu hỏi. Có không ít người nghi ngại rằng, gia đình các nhân chứng sẽ dựa vào đó để trở nên nổi tiếng, tuy nhiên, họ không hề có lợi ích vật chất nào bởi những thông tin này sẽ được đề cập trong tập hồ sơ dài cùng hàng nghìn trường hợp khác.
Mặt khác, cũng có thể nhóm nghiên cứu “sáng tác” ra câu chuyện bởi chỉ có họ tiếp xúc và ghi nhận trực tiếp những thông tin nên họ hoàn toàn có thể nói dối mà không ai kiểm chứng được. Tuy nhiên, với hơn 2.500 hồ sơ nhân chứng lưu trữ ở ĐH Virginia được ghi chép cẩn thận thì đây quả là giả thuyết tồi.
Những thông tin được biết đến bằng cách thông thường
Một giả thuyết khác được đề cập đến đó là nhân chứng vô tình biết được thông tin về người được cho là tiền kiếp của mình. Và vô tình, những thông tin đó ăn sâu vào tiềm thức, biến thành một ký ức giả – thuật ngữ mà các nhà tâm thần thường dùng để chỉ ký ức không phải của bản thân nhưng bệnh nhân lại tưởng tượng đó là của chính mình.
Dù vậy, giả thuyết không lý giải được việc một đứa trẻ có thể biết được những thông tin cá nhân của một người nào đó ở rất xa và không có một mối liên hệ nào với gia đình đứa bé ấy. Rất có thể, người “tiền kiếp” đã qua đời rất lâu và cũng không hề nổi tiếng để thông tin cá nhân của họ có thể lọt ra ngoài.
“Trí nhớ gene”
Người ta cho rằng, những ký ức có thể được di truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác nhờ gene. Theo đó, từ khi con người mới sinh ra, trong bộ não đã tồn tại vùng lưu giữ ký ức của những việc từng xảy ra từ đời bố mẹ, ông bà, cụ kỵ…
“Trí nhớ gene” được lưu trong những phân tử protein của tế bào não. Khi có một năng lực nào đó làm khởi động các phân tử ấy thì ký ức về đời trước sẽ được phục hồi, con người bỗng nhiên nhớ lại những gì từng xảy ra với tổ tiên xa xôi, y như là đã xảy ra với chính mình. Tuy vậy, giả thuyết này vẫn vấp phải nhiều sự phản đối của các nhà nghiên cứu.
Liệu con người có nhiều kiếp sống?
Những niềm tin về sự đầu thai hay luân hồi được phổ biến rộng rãi trong các tôn giáo và đức tin. Một số người xem đó là một phần của tôn giáo, những người khác thấy đó chỉ là một câu trả lời cho các câu hỏi thường gặp về đạo đức và sinh tồn như là “Tại sao chúng ta lại ở đây”?…
Quan niệm về sự đầu thai, luân hồi cho rằng, một người đã ở sẽ trở lại thế gian này trong một thể xác khác. Điều này gợi đến một sự kết nối giữa những cuộc đời có vẻ không liên quan đến nhau, nhưng sâu sa trong đó là bằng chứng ẩn giấu về sự nối tiếp giữa cuộc đời.
Dù đưa ra rất nhiều bằng chứng chứng minh về hiện tượng đầu thai, luân hồi… nhưng Ian Stevenson nói rằng, lời giải thực sự về những trường hợp này vẫn là câu hỏi còn bỏ ngỏ.
(Theo Trí Thức Trẻ)